Ngày đăng: [Tuesday, August 30, 2011]
Hôm qua có một bạn trẻ hỏi về một vòng luẩn quẩn về kinh tế Việt Nam đối với tình hình lãi suất trong hệ thống ngân hàng Việt. Hôm nay có bài viết của một TS kinh tế của Mỹ, tôi thấy nó hàn lâm và bài bản. Nên chép về đây để mọi người bàn luận thay vì tôi phải viết đi viết lại một chủ đề mà tôi đã viết nhiều lần về mặt lý luận triết học cho kinh tế Việt Nam. Cho nên, còn nhiều điều để bàn với bài viết này so với hiện trạng chính trị và kinh tế Việt Nam. Vì theo tôi, kinh tế là chính trị, nếu chỉ bàn về kinh tế mà không gắn kết với chính trị thì sẽ không giải quyết được vấn đề gốc của nó.
Bài toán lãi suất của tân thống đốc Nguyễn Văn Bình
Hình: REUTERS
Từ khi nhậm chức hồi cuối tháng 7, 2011, một trong những thay đổi về chính sách lớn nhất mà tân Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình đưa ra là hạ lãi suất. Lập trường này đi ngược với quan điểm của người tiền nhiệm là ông Nguyễn Văn Giàu, vốn được coi là người đứng đằng sau câu chuyện thắt chặt tiền tệ.
Theo Thống đốc Bình, “từ tháng 9, lãi suất có thể giảm từ 17%-19% và ngay trong tháng 8 [chính phủ] sẽ tung ra một loạt các biện pháp kinh tế chứ không còn là các biện pháp hành chính đơn thuần như trước đây”.
Con số lãi suất 17%-19% mà Thống đốc Bình đưa ra là lãi suất cho vay thương mại. Mức lãi suất cho vay thương mại là lãi suất các ngân hàng áp dụng cho các khoản vay thương mại của doanh nghiệp và/hoặc hộ gia đình. Nó không phải là con số NHNN có thể ấn định. Vì thế về nguyên tắc NHNN chỉ có thể gián tiếp tác động đến nó.
NHNN có thể làm gì? NHNN có thể thực hiện nới lỏng tín dụng bằng cách (1) hạ lãi suất cơ bản, (2) hạ các lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn, (3) hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Hạ lãi suất cơ bản?
Hiện nay lãi suất cơ bản vẫn đang ở mức 9%, không tăng kể từ đầu 2010. Theo Bộ luật Dân sự, lãi suất của mọi hoạt động thương mại không vượt quá 50% của lãi suất cơ bản do NHNN ấn định. Như vậy, với mức lãi suất cơ bản 9%, nếu đúng theo Bộ luật Dân sự, lãi suất huy động và lãi suất cho vay đều không thể vượt quá 13,5%. Tuy nhiên, chính NHNN hiện nay đã cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) huy động tiền gửi với lãi suất lên tới 14% còn lãi suất cho vay thương mại thì đang vượt quá mức 20%. Vì thế, trên nguyên tắc thì chính sách của NHNN vẫn đang vi phạm Bộ luật Dân sự.
NHNN có thể hạ lãi suất cơ bản, từ đó hạ trần lãi suất huy động của các NHTM xuống dưới mức 14%. Tuy nhiên có một thực tế là các NHTM hiện nay đều huy động tiền gửi với lãi suất vượt trần 14% rất nhiều (có thể lên tới 18%-20%) bất chấp quy định của NHNN về trần lãi suất tiền gửi. Cách “lách” luật của các NHTM thường là khách hàng đi gửi tiền nhận được lãi suất tiền gửi không quá 14% (đúng như quy định của NHNN) và đồng thời nhận được một phần “quà tặng” bằng tiền mặt.
Không có lí do gì các NHTM không tiếp tục lách luật giống như trước, ngay cả khi NHNN hạ lãi suất cơ bản xuống thấp hơn mức 9% hiện nay. Và vì thế không có lí do để hi vọng lãi suất cho vay sẽ thấp đi khi nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp vẫn rất cao và vẫn có các doanh nghiệp sẵn sàng trả lãi suất cao để vay vốn.
Vì thế, có lẽ chìa khóa ở đây không phải là hạ lãi suất cơ bản, mà là sử dụng biện pháp hành chính để xử lý các trường hợp lách luật của NHTM nhằm đảm bảo các NHTM này không huy động tiền gửi với lãi suất cao quá mức NHNN cho phép. Việc này trên nguyên tắc là có thể làm được, nhưng không dễ dàng.
Hạ các lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn
Hiện nay, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn do NHNN quy định là 13% và 14%. Bản chất của tái chiết khấu là việc các NHTM đến NHNN thế chấp các chứng chỉ tài sản có giá (chủ yếu là trái phiếu chính phủ) để vay tiền từ NHNN. Tái cấp vốn về cơ bản cũng giống như tái chiết khấu nhưng các tài sản đem ra thế chấp không tốt bằng, vì thế lãi suất cao hơn (14% so với 13%).
Mức lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn hiện nay thấp hơn rất nhiều so với lãi suất huy động. Vì thế các NHTM có thể kiếm được tiền từ việc vay vốn của NHNN rồi cho vay lại. Đây là động cơ chính của các NHTM khi mua trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, không phải NHTM nào có trái phiếu chính phủ cũng có thể đến NHNN để vay vốn khi cần, và không phải có thể thế chấp hết được các trái phiếu này để vay vốn. Lý do là NHNN cần phải kiểm soát lượng tiền bơm vào nền kinh tế qua dạng nghiệp vụ này.
Việc giảm lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn, vì thế, có lợi cho những NHTM đang ôm trái phiếu chính phủ nhưng không trực tiếp dẫn tới câu chuyện giảm lãi suất cho vay trừ khi NHNN quyết định tăng lượng tiền bơm vào nền kinh tế. Vì thế, chìa khóa ở đây cũng không phải là việc hạ lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn, mà là tăng cung tiền hay không tăng cung tiền.
Vì việc tăng cung tiền trên nguyên tắc mâu thuẫn với nỗ lực kìm lạm phát của chính phủ trong năm 2011, khả năng NHNN bơm thêm tiền vào nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tái chriết khấu và tái cấp vốn gần như không thể có.
Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện nay là 3% đối với các khoàn tiền gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn dưới 12 tháng và 1% đối với các khoản gửi có kỳ hạn trên 12 tháng. Đây là tỷ lệ rất thấp được ấn định từ nhiều năm trước. Từ tháng 4, 2011 tới nay, có nhiều ý kiến bàn đến chuyện NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhưng rốt cuộc biện pháp này không được thực hiện vì nhiều quan điểm cho rằng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là quá sức đối với hệ thống ngân hàng của Việt Nam.
Tỷ lệ 3% và 1% là tỷ lệ quá thấp và không thể thấp hơn được nữa vì lý do an toàn của hệ thống ngân hàng, NHNN không thể hạ thấp tỷ lệ này được nữa. Do đó, giải pháp này trên nguyên tắc sẽ không khả thi.
Do đó, mặc dù Thống đốc Bình có quyết tâm hạ lãi suất, ông không có nhiều lựa chọn để thực hiện mong muốn này. Có nhiều khả năng ông sẽ phải dựa vào việc ép các NHTM hạ lãi suất huy động tiền gửi làm giải pháp chính để thực hiện mục tiêu của mình.
Asia Clinic, 10h39', ngày thứ Ba, 30/8/2011
Ghi chú của chủ blog:
Ghi chú của chủ blog:
1. Lãi suất cơ bản: là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn. Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ bản.
2. Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất thực hiện trên cơ sở đối tượng là các giấy tờ có giá trị của người dân hoặc của tổ chức kinh doanh. Các giấy tờ đó gồm như: hối phiếu, lệnh phiếu, trái phiếu , ...Các ngân hàng sẽ chấp nhận trả tiền cho người cầm (hoặc sở hữu các giấy đó để đổi lại một khoản lời mà ta gọi là lãi suất chiết khấu và thu lại khoản tiền của họ đối với người thanh toán ghi trên đó khi đến hạn. Các ngân hàng này lại cần tiền nhưng các giấy tờ đó chưa đến hạn thanh toán họ bán lại các khoản sẽ thu này cho NH TW để đổi lấy tiền mặt và bớt lại cho NHTW một khoản, ta gọi đó là lãi suất tái chiết khấu.
3. Lãi suất tái cấp vốn cũng gần giống như vậy nhưng đối tượng ở đây là các khoản cho vay của các NH TM, và sau đó họ bán lại các khoản này co NH TW để đổi lấy lương tiền mặt.
Dĩ nhiên là các lãi suất này khác nhau tùy vào loại chứng từ đem ra chiết khấu, vào các khoản vay của NH, vào từng thời điểm theo chính sách tiền tệ của NHTW theo sự lèo lái của chính phủ mỗi quốc gia....
0 Nhận xét