Gần 4 năm trong tù, loạt bài giải Nobel Y học hằng năm bị ngưng 3 năm 2017, 2018 và 2019. Nay tiếp tục. Mấy hôm nay bận quá không có thời gian để viết giải Nobel Y học năm 2020. Nay ngồi viết cho mọi người cùng hiểu.
Ba nhà khoa học được giải Nobel Y học năm 2020(Hình của nobelprize.org)
Giải Nobel năm nay được trao cho ba nhà khoa học có đóng góp quyết định trong cuộc chiến chống lại bệnh viêm gan siêu vi C, lây truyền qua đường máu, một vấn đề sức khỏe toàn cầu gây ra xơ gan và ung thư gan ở mọi người trên thế giới.
Harvey J. Alter, Michael Houghton và Charles M. Rice đã có những khám phá tinh tế dẫn đến việc xác định một loại virus mới, virus viêm gan C. Trước công trình nghiên cứu của họ, việc phát hiện ra virus Viêm gan A và B đã là những bước tiến quan trọng, nhưng phần lớn các trường hợp viêm gan lây truyền qua đường máu vẫn không giải thích được. Việc phát hiện ra vi rút viêm gan C đã tiết lộ nguyên nhân của những trường hợp viêm gan mãn tính còn lại và có thể làm các xét nghiệm máu và các loại thuốc mới đã cứu sống hàng triệu người.
Viêm gan - mối đe dọa toàn cầu đối với sức khỏe con người
Viêm gan(Liver Inflammation) hay còn gọi là viêm gan(Hepatitis), Hepatitis là sự kết hợp của các từ Hy Lạp với tiếp đầu ngữ Hepato có nghĩa là gan và tiếp vị ngữ itis có nghĩa là viêm. Từ Hepatitis chủ yếu là chỉ điểm cho nguyên nhân do nhiễm virus, mặc dù lạm dụng rượu, chất độc từ môi trường và bệnh tự miễn cũng là những nguyên nhân quan trọng.
Vào những năm 1940s, người ta thấy rằng có hai loại viêm gan truyền nhiễm chính một cách rõ ràng. Loại thứ nhất, được đặt tên là viêm gan A, lây truyền qua nguồn nước hoặc thức ăn bị ô nhiễm và thường ít ảnh hưởng lâu dài đến bệnh nhân.
Loại thứ hai được truyền qua máu và chất dịch của cơ thể và là mối đe dọa nghiêm trọng hơn nhiều vì nó có thể dẫn đến tình trạng mãn tính, với sự phát triển của xơ gan và ung thư gan (Hình 1).
Đây là dạng viêm gan ngấm ngầm, vì nếu không những người khỏe mạnh có thể bị nhiễm bệnh âm thầm trong nhiều năm trước khi phát sinh các biến chứng nghiêm trọng. Viêm gan lây truyền qua đường máu có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong đáng kể, và gây ra hơn một triệu ca tử vong mỗi năm trên toàn thế giới, do đó làm cho nó trở thành mối quan tâm sức khỏe toàn cầu trên quy mô tương đương với nhiễm HIV và bệnh lao.
Hình 1: Có hai dạng viêm gan chính. Một dạng là bệnh cấp tính do vi rút Viêm gan A gây ra, lây truyền qua nước hoặc thức ăn bị ô nhiễm. Dạng khác do vi rút Viêm gan B hoặc vi rút Viêm gan C (giải Nobel năm nay) gây ra. Dạng viêm gan lây truyền qua đường máu này thường là một bệnh mãn tính có thể tiến triển thành xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan.(Hình của nobelprize.org)
Một tác nhân lây nhiễm chưa được biết
Chìa khóa để can thiệp thành công các bệnh truyền nhiễm là xác định được tác nhân gây bệnh. Vào những năm 1960, Baruch Blumberg xác định rằng một dạng viêm gan lây truyền qua đường máu là do một loại vi rút được gọi là vi rút Viêm gan B gây ra và khám phá này dẫn đến sự phát triển của các xét nghiệm chẩn đoán và một loại vắc xin hiệu quả. Blumberg đã được trao giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 1976 cho khám phá này.
Harvey James Alter (sinh ngày 12 tháng 9 năm 1935) là một nhà nghiên cứu y khoa, nhà virus học và bác sĩ người Mỹ, người nổi tiếng với công trình dẫn đến việc phát hiện ra virus viêm gan C. Alter là trưởng bộ phận bệnh truyền nhiễm và là phó giám đốc nghiên cứu của Khoa Y học Truyền máu tại Trung tâm Lâm sàng Warren Grant Magnuson thuộc Viện Y tế Quốc gia (NIH). Vào giữa những năm 1970, Alter và nhóm nghiên cứu của ông đã chứng minh rằng hầu hết các trường hợp viêm gan sau truyền máu không phải do virus viêm gan A và viêm gan B.
Làm việc độc lập, Alter và Edward Tabor, một nhà khoa học tại Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ, đã chứng minh thông qua các nghiên cứu về sự lây truyền ở tinh tinh rằng một dạng viêm gan mới, ban đầu được gọi là "viêm gan không phải A, không phải B" gây ra nhiễm trùng và rằng tác nhân gây bệnh có lẽ là vi rút. Công trình nghiên cứu này cuối cùng đã dẫn đến việc phát hiện ra vi rút viêm gan C vào năm 1988, mà ông đã nhận giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 2020 cùng với Michael Houghton và Charles M. Rice.
Alter đã nhận được sự công nhận cho nghiên cứu dẫn đến việc phát hiện ra vi rút gây ra viêm gan C. Ông đã được trao tặng Huân chương Dịch vụ Xuất sắc, giải thưởng cao nhất được trao cho dân thường trong dịch vụ y tế công cộng của chính phủ Hoa Kỳ và năm 2000 giải Albert Lasker cho Nghiên cứu Y khoa Lâm sàng.
Vào thời điểm đó, Harvey J. Alter tại Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ đang nghiên cứu về sự xuất hiện của bệnh viêm gan ở những bệnh nhân được truyền máu. Mặc dù các xét nghiệm máu tìm vi rút viêm gan B mới được phát hiện đã làm giảm số trường hợp mắc bệnh viêm gan do truyền máu, nhưng Alter và các đồng nghiệp đã chứng minh một cách đáng lo ngại rằng một số lượng lớn các trường hợp vẫn còn. Các xét nghiệm về nhiễm vi-rút Viêm gan A cũng được phát triển vào khoảng thời gian này, và rõ ràng là Viêm gan A không phải là nguyên nhân của những trường hợp không rõ nguyên nhân này.
Một nguồn đáng lo ngại là một số lượng đáng kể những người được truyền máu đã phát triển bệnh viêm gan mãn tính do một tác nhân truyền nhiễm không xác định. Alter và các đồng nghiệp của ông đã chỉ ra rằng máu từ những bệnh nhân viêm gan này có thể truyền bệnh cho tinh tinh, vật chủ nhạy cảm duy nhất ngoài con người. Các nghiên cứu sau đó cũng chứng minh rằng tác nhân lây nhiễm chưa được biết đến có các đặc điểm của virus. Theo cách này, các cuộc điều tra có phương pháp của Alter đã xác định một dạng viêm gan vi rút mãn tính mới, riêng biệt. Căn bệnh bí ẩn được gọi là viêm gan “không phải A, không phải B”.
Xác định vi rút viêm gan C
Michael Houghton sinh năm 1949, là một nhà khoa học người Anh. Ông nhận bằng Tiến sĩ năm 1977 tại King's College London. Cùng với Qui-Lim Choo, George Kuo và Daniel W. Bradley, ông đã đồng phát hiện ra bệnh viêm gan siêu vi C vào năm 1989. Ông cũng là người đồng phát hiện ra bộ gen viêm gan D vào năm 1986. Việc phát hiện ra bệnh viêm gan C đã dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của thuốc thử chẩn đoán để phát hiện HCV trong nguồn cung cấp máu, làm giảm nguy cơ nhiễm HCV thông qua truyền máu từ 1/3 xuống còn khoảng 1/2 triệu. Người ta ước tính rằng xét nghiệm kháng thể đã ngăn ngừa ít nhất 40.000 ca nhiễm mới mỗi năm chỉ riêng ở Mỹ và nhiều trường hợp khác trên toàn thế giới. Houghton hiện là Chủ tịch Nghiên cứu Xuất sắc của Canada về Vi-rút học và Giáo sư Li Ka Shing về Vi-rút học tại University of Alberta, nơi ông cũng là Giám đốc của Viện Virus học Ứng dụng Li Ka Shing. Ông cùng với Harvey J. Alter và Charles M. Rice được trao giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 2020.
Việc xác định loại virus mới hiện là một ưu tiên hàng đầu. Tất cả các kỹ thuật truyền thống để săn virus đều được đưa vào sử dụng nhưng bất chấp điều này, virus đã lẩn tránh sự cô lập trong hơn một thập kỷ. Michael Houghton, làm việc cho hãng dược phẩm Chiron, đã đảm nhận công việc gian khổ cần thiết để phân lập trình tự di truyền của virus. Houghton và các đồng nghiệp của ông đã tạo ra một bộ sưu tập các đoạn DNA từ các axit nucleic có trong máu của một con tinh tinh bị nhiễm bệnh.
Phần lớn những mảnh DNA này đến từ bộ gen của chính tinh tinh, nhưng các nhà nghiên cứu dự đoán rằng một số có thể có nguồn gốc từ loại virus chưa được biết đến. Với giả định rằng các kháng thể chống lại virus sẽ có trong máu được lấy từ bệnh nhân viêm gan, các nhà nghiên cứu đã sử dụng huyết thanh của bệnh nhân để xác định các đoạn DNA virus được nhân bản mã hóa protein virus.
Sau khi tìm kiếm toàn diện, một bản sao hoàn hảo đã được tìm thấy. Các nghiên cứu sâu hơn cho thấy bản sao này có nguồn gốc từ một loại virus RNA mới thuộc họ Flavivirus và nó được đặt tên là virus Viêm gan C. Sự hiện diện của các kháng thể ở bệnh nhân viêm gan mãn tính liên quan mạnh mẽ đến virus này là tác nhân bị thiếu mà lâu nay chưa được biết.
Tóm tắt các khám phá
Hình 2: Tóm tắt các khám phá được trao giải Nobel năm nay. Các nghiên cứu phương pháp về bệnh viêm gan do truyền máu của Harvey J. Alter đã chứng minh rằng một loại vi rút không xác định là nguyên nhân phổ biến của bệnh viêm gan mãn tính. Michael Houghton đã sử dụng một chiến lược chưa được thử nghiệm để phân lập bộ gen của loại vi rút mới được đặt tên là vi rút viêm gan C. Charles M. Rice đã cung cấp bằng chứng cuối cùng cho thấy chỉ riêng virus Viêm gan C có thể gây ra bệnh viêm gan. (Hình của nobelprize.org)
Charles Moen Rice
Charles Moen Rice (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1952) là một nhà virus học người Mỹ có lĩnh vực nghiên cứu chính là virus Viêm gan C. Ông là giáo sư virus học tại Rockefeller University tại Thành phố New York và trường Y của Washington University St. Louis
Rice là thành viên của Hiệp hội vì sự tiến bộ của khoa học Hoa Kỳ, thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ và là chủ tịch của Hiệp hội Vi rút học Hoa Kỳ từ năm 2002 đến năm 2003. Ông đã nhận được Giải thưởng nghiên cứu Y học lâm sàng Lasker-DeBakey năm 2016, cùng với Ralf FW Bartenschlager và Michael J. Sofia. Cùng với Michael Houghton và Harvey J. Alter, ông đã được trao Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 2020 "cho việc phát hiện ra virus viêm gan C".
Việc phát hiện ra virus viêm gan C có ý nghĩa quyết định; nhưng một phần cơ bản của câu hỏi chưa có lời đáp: liệu virus có thể gây ra bệnh viêm gan?
Để trả lời câu hỏi này, các nhà khoa học đã phải điều tra xem liệu virus nhân bản có thể nhân bản và gây bệnh hay không. Charles M. Rice, một nhà nghiên cứu tại Washington University St. Louis và Rockefeller University, cùng với các nhóm khác làm việc với virus RNA, đã ghi nhận một vùng chưa được xác định trước đây ở cuối bộ gen virus viêm gan C mà họ nghi ngờ có thể quan trọng đối với sự nhân lên của virus.
Rice cũng quan sát các biến thể di truyền trong các mẫu vi rút cô lập và đưa ra giả thuyết rằng một số trong số chúng có thể cản trở sự nhân lên của vi rút. Thông qua kỹ thuật di truyền, Rice đã tạo ra một biến thể RNA của virus viêm gan C bao gồm vùng mới được xác định của bộ gen virus và không có các biến thể di truyền bất hoạt. Khi RNA này được tiêm vào gan của tinh tinh, virus đã được phát hiện trong máu và những thay đổi bệnh lý giống như những gì đã thấy ở người mắc bệnh mãn tính. Đây là bằng chứng cuối cùng cho thấy chỉ riêng vi rút viêm gan C có thể gây ra các trường hợp viêm gan qua trung gian truyền máu không giải thích được.
Tầm quan trọng của khám phá được trao giải Nobel này
Khám phá về vi rút viêm gan C của những người đoạt giải Nobel là một thành tựu mang tính bước ngoặt trong cuộc chiến chống lại các bệnh do vi rút đang diễn ra (Hình 2). Nhờ khám phá của họ, các xét nghiệm máu có độ nhạy cao đối với virus hiện đã có sẵn và những xét nghiệm này về cơ bản đã loại bỏ bệnh viêm gan sau truyền máu ở nhiều nơi trên thế giới, cải thiện đáng kể sức khỏe toàn cầu. Khám phá của họ cũng cho phép sự phát triển nhanh chóng của các loại thuốc kháng vi-rút nhắm vào bệnh viêm gan C. Lần đầu tiên trong lịch sử, căn bệnh này hiện có thể được chữa khỏi, làm dấy lên hy vọng loại bỏ vi-rút viêm gan C khỏi dân số thế giới. Để đạt được mục tiêu này, cần có những nỗ lực quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc xét nghiệm máu và sản xuất thuốc kháng vi-rút trên toàn cầu (Hình 3).
Hình 3: Các khám phá của ba người đoạt giải Nobel cho phép thiết kế các xét nghiệm máu nhạy cảm đã loại bỏ nguy cơ mắc bệnh viêm gan do truyền máu ở một phần lớn thế giới. Bước đột phá này cũng cho phép phát triển các loại thuốc kháng vi-rút có thể chữa khỏi bệnh. Viêm gan C vẫn là một mối quan tâm lớn về sức khỏe toàn cầu, nhưng hiện đã có cơ hội để loại bỏ căn bệnh này.
Đa Khoa Phước Sơn, Tuesday, 19:19' 06 Oct, 2020
0 Nhận xét