3 CUỘC KHỦNG HOẢNG CỦA EO BIỂN ĐÀI LOAN TRONG QUÁ KHỨ CÓ THỂ DẠY CHÚNG TA ĐIỀU GÌ VỀ CĂNG THẲNG MỸ TRUNG NGÀY HÔM NAY

Tổng thống Bill Clinton giơ tay biểu thị không còn câu hỏi nào nữa khi ông và Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân tổ chức cuộc họp báo chung vào năm 1997 tại Washington D.C. Clinton xác nhận rằng ông đã đồng ý dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu công nghệ điện hạt nhân sang Trung Quốc.
Joyce Naltchayan / AFP qua Getty Images

Bài viết gốc: What 3 past Taiwan Strait crises can teach us about U.S.-China tensions today

Ngày 2 tháng 8 năm 2022, thứ Ba, 5: 06 giờ tối theo giờ ET

Bài viết của Anthony Kuhn

SEOUL - Chuyên cơ của Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi đã hạ cánh ở Đài Loan vào tối thứ Ba theo giờ địa phương. Chuyến thăm của bà đã làm dấy lên những cảnh báo từ Trung Quốc đại lục, và nguy cơ xảy ra cuộc khủng hoảng lần thứ tư ở khu vực được gọi là eo biển Đài Loan.

Trung Quốc coi Đài Loan là một phần lãnh thổ của mình và chuyến thăm của Pelosi - quan chức cấp cao nhất được bầu của Hoa Kỳ đến thăm hòn đảo kể từ cuộc viếng thăm của Chủ tịch Hạ viện Newt Gingrich cách đây 25 năm - là vi phạm chủ quyền của nước này. Họ cũng coi đây là hành động vi phạm cam kết của Washington đối với "chính sách một Trung Quốc", công nhận Bắc Kinh là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc.

Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã lên tiếng công kích Washington trong một tuyên bố hôm thứ Ba, 02/8/2022 rằng sự phản bội của họ[Hoa Kỳ] đối với Trung Quốc "về vấn đề Đài Loan đang phá vỡ uy tín quốc gia của nước này." Cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều tăng cường hoạt động quân sự trong khu vực trước chuyến thăm, với việc Bộ Tư lệnh Quân đoàn phía Đông của Trung Quốc bắt đầu các hoạt động chung trên không và trên biển ở mọi hướng xung quanh Đài Loan chỉ vài phút sau khi Pelosi hạ cánh xuống Đài Bắc.

Làm thế nào một cuộc khủng hoảng có thể diễn ra vẫn còn là một vấn đề suy đoán, nhưng nó khó có thể là chưa từng có. Trên thực tế, đây sẽ là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ tư, sau những vụ việc tương tự vào các năm 1954, 1958 và vào giữa những năm 1990.

Người biểu tình cầm bảng hiệu và biểu ngữ bên ngoài khách sạn Hilton Hawaiian Village ở Honolulu, nơi Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân dự tiệc trưa với thị trưởng thành phố Honolulu năm 1997. Những người biểu tình hô to "Đài Loan Có, Trung Quốc Không" khi đoàn xe chủ tịch đi qua.
George F. Lee / AFP qua Getty Images

Nhà khoa học chính trị Ian Chong của Đại học Quốc gia Singapore nói:

Trong cuộc xung đột đầu tiên, ngay sau khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, Bắc Kinh đã cố gắng ngăn cản chính quyền Eisenhower ký hiệp ước phòng thủ chung với lãnh đạo Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, người đã chạy sang Đài Loan vào năm 1949 sau khi thua cuộc nội chiến trước cộng sản của Mao Trạch Đông. Hoa Kỳ và Đài Loan đã ký hiệp ước phòng thủ vào năm 1954.

Trong khi đó, Hoa Kỳ đã cố gắng ngăn cản các lực lượng cộng sản chiếm giữ các đảo Kim Môn và Mật Tông do Đài Loan chiếm giữ ngay ngoài khơi bờ biển phía đông nam của Trung Quốc, nơi bị Trung Quốc bắn phá bằng pháo.

"Nhưng điều họ cũng muốn làm", Chong nói, "là ngăn cản Tưởng Giới Thạch cố gắng chiếm lại đất liền" bằng một cuộc phản công.

Một cuộc xung đột thứ hai khiến các đảo bị pháo kích nhiều hơn vào năm 1958. Quân đội Mỹ đã lên kế hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Trung Quốc để ngăn chặn việc đại lục tiếp quản các đảo Kim Môn và Mật Tông do Đài Loan nắm giữ, nhưng Tổng thống Dwight Eisenhower đã bác bỏ ý kiến ​​này.

Cuối cùng, cả hai đã giải quyết được tình trạng bế tắc không dễ dàng, trong đó những người cộng sản và những người theo chủ nghĩa dân tộc luân phiên bắn nhau nhiều ngày. Nghi thức bảo vệ danh dự này tiếp tục diễn ra cách quảng trong khoảng hai thập kỷ. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ lúc bấy giờ là John Foster Dulles đã mô tả cuộc bắn phá luân phiên như một mưu đồ tuyên truyền "tâm lý và được thiết kế để tạo ra ấn tượng rằng họ [Trung Quốc] là bậc thầy."

Các Dân quân trẻ từ xã Phong Đài của Trung Quốc phản đối việc Mỹ viện trợ quân sự cho Đài Loan, năm 1958.
Keystone-France / Gamma-Keystone qua Getty Images

Cuộc khủng hoảng thứ ba nổ ra vào năm 1995 sau chuyến thăm của Tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy tới trường cũ của ông, Đại học Cornell. Chính quyền Clinton ban đầu phản đối ý tưởng này nhưng buộc phải ngừng theo một nghị quyết của Quốc hội để ủng hộ chuyến thăm.

Trung Quốc đã đáp trả bằng các cuộc tập trận quân sự kéo dài nhiều tháng, bao gồm phóng tên lửa vào vùng biển ngoài khơi Đài Loan và diễn tập các cuộc tấn công đổ bộ trên đảo. Bắc Kinh coi chuyến thăm Hoa Kỳ của ông Lý là một sự phản bội khác đối với cam kết của Washington đối với "chính sách một Trung Quốc".

Tương tự, liên quan đến chuyến thăm hiện tại của Pelosi tới Đài Loan, "Bắc Kinh tin rằng Mỹ đang dần xóa bỏ chính sách một Trung Quốc" và đang cố gắng vẽ một ranh giới trên cát để răn đe Washington, Chi Le-yi, một quân nhân ở Đài Bắc nói, ông cũng là nhà bình luận và tác giả của một cuốn sách về cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ ba.

Động thái quân sự của Bắc Kinh cũng nhằm ngăn cản cử tri Đài Loan bỏ phiếu cho Lý Đăng Huy trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1996.

Mưu đồ đã bị phản tác dụng. Mỹ đã cử hai nhóm tác chiến tàu sân bay đến vùng biển gần Đài Loan. Và cử tri Đài Loan đã chọn Lý Đăng Huy với 54% đa số, trong cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên của hòn đảo.

Susan Shirk, người từng là phó trợ lý ngoại trưởng tại Văn phòng các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, cho biết: “Hai bên thực sự rất vui mừng và tỉnh táo khi họ tiến gần đến một cuộc chạm trán quân sự lớn”, sau khi cuộc khủng hoảng chấm dứt. "Và do đó, cả hai bên thực sự đã nỗ lực rất nhiều trong việc đặt một cuộc vận động hành lang cho mối quan hệ để ngăn điều đó xảy ra một lần nữa."

Shirk, tác giả của cuốn sách Overreach - Sự lừa dối, về quan hệ Mỹ-Trung, nói thêm, "Nếu Trung Quốc không giảm leo thang, nếu họ đáp trả, chẳng hạn tấn công hoặc quấy rối nhóm tác chiến tàu sân bay - điều đó sẽ rất nguy hiểm."

Hoa Kỳ và Trung Quốc cuối cùng đã ổn định quan hệ, đỉnh điểm là khi Chủ tịch Trung Quốc lúc bấy giờ là Giang Trạch Dân có chuyến thăm cấp cao tới Hoa Kỳ vào năm 1997. Tuy nhiên, nguy cơ xảy ra xung đột giữa Hoa Kỳ, Trung Quốc và Đài Loan là rất cao.

Giờ đây, một phần tư thế kỷ sau, khi Hoa Kỳ và Trung Quốc lại đối đầu vì Đài Loan, quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh căng thẳng hơn nhiều so với năm 1996.

Michael Swaine, giám đốc chương trình Đông Á tại the Quincy Institute for Responsible Statecraft nói, "Đó là một loại đối thủ chiến lược có thể dễ dàng tuột ra khỏi tầm tay."

Một điều khác lần này, Chong lưu ý, là nhà lãnh đạo của Trung Quốc, Ông nói, tham vọng của Tập Cận Bình là hoàn thành việc "trẻ hóa dân số đất nước Trung Quốc", khôi phục quốc gia này về vị trí ưu thế trong khu vực, bao gồm cả việc thống nhất với Đài Loan.

Ông Chong nói: "Cá nhân ông Tập gắn bó với chính sách Đài Loan hơn những người tiền nhiệm của mình. Vì vậy, bất cứ điều gì không đi theo hướng mà ông ấy muốn có thể ảnh hưởng đến vị thế của ông ấy, hoặc ít nhất là uy tín của ông ấy".

Và ông Tập chỉ huy một quân đội hùng mạnh hơn nhiều so với những gì Trung Quốc sở hữu trong bất kỳ cuộc khủng hoảng nào trong quá khứ. Điều đó bao gồm ba tàu sân bay. Liệu Trung Quốc có triển khai chúng hay không, với một số tàu chiến của Mỹ đã cơ động quanh khu vực, là một câu hỏi khó trả lời. Các nhà phân tích cho rằng Bắc Kinh vừa cố gắng thể hiện sức mạnh quân sự vừa tránh kích động leo thang quân sự.

"Nếu Trung Quốc để Pelosi thăm Đài Loan và không làm bất cứ điều gì, Trung Quốc có nguy cơ trông yếu đi, nhưng đồng thời, ông Tập thực sự cần sự ổn định trong nước vào lúc này, và đó là lý do tại sao ông ấy cũng không thực sự có lựa chọn tham chiến, bởi vì chiến tranh sẽ là nguy cơ lớn nhất cho sự ổn định chính trị trong nước, Wen-Ti Sung, một giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Quốc gia Úc, nói. "Có vẻ như anh ta bị mắc kẹt trong một chút Catch-22(*)."

Và nếu bất cứ ai đã học được từ các cuộc khủng hoảng trong quá khứ ở eo biển Đài Loan, Chong nói, đó là người dân Đài Loan, những người "có vẻ như không có gì khác" hơn trò phim hoạt hình trẻ con xem.

Vì vậy, nếu Bắc Kinh "muốn gửi một thông điệp" tới một hòn đảo ngày càng không bị đe dọa, Chong nói, "họ phải tiếp tục tăng cường mối đe dọa của mình mọi lúc, cho đến khi họ phải thực sự thực hiện mối đe dọa đó, hoặc bị gọi là trò lừa bịp."

Ghi chú: (*) Catch22: Một tiểu thuyết châm biếm về chiến tranh qua các mẫu chuyện trong chiến tranh thế giới II, của tác giả người Mỹ Joseph Heller viết vào năm 1953 và hoàn thành xuất bản năm 1961. Cuốn tiểu thuyết được chuyển thể thành phim vào năm 1970, bởi nam diễn viên từng đoạt giải Quả cầu vàng và Oscar George Clooney, nhà sản xuất từng đoạt giải Oscar Grant Heslov và nhà sản xuất được đề cử giải Emmy Richard Brown, do Mike Nichols làm đạo diễn. Năm 1994, Heller xuất bản phần tiếp theo của cuốn tiểu thuyết năm 1961 mang tên "Closing Time". Đại ý của tác giả nói lên con người ta bị mắc kẹt giữa 2 ý nghĩ "muốn gây chiến" nhưng lại "thấy sự phi lý của chiến tranh sẽ làm thiệt hại cho chính mình". Tập Cận Bình đang bị mắc vào tâm lý Catch22 trong vấn đề bà Pelosi thăm Đài Loan lần này.

Lindale, 21:35' Tuesday, 02nd August 2022

Đăng nhận xét

0 Nhận xét