KẾT THÚC PHÉP MÀU VIỆT NAM

Ngày đăng: [Saturday, July 14, 2012]

Cảm ơn cháu Trang La đã dịch bài viết của Geoffrey Cain, một nhà báo, nhà bình luận kinh tế chính trị toàn cầu, dù hơi trễ, nhưng tôi vẫn đưa lên đầy đủ nhất theo bài viết gốc, kể cả link chèn các dữ liệu của bài viết gốc, để mọi người tham khảo.

Bài viết của tác giả có vài ý kiến chủ quan về quy kết cá nhân điều hành thủ tướng Việt Nam, vì không hiểu cơ cấu chính trị về lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam. Nhưng bỏ qua lỗi này của tác giả, thì những dữ liệu và thông tin kinh tế được tác giả tổng hợp trong bài có tính học thuật rất đáng để quan tâm.


Bài viết gốc: The End of Vietnam Miracle

Sài Gòn - Ở nơi đã từng là một trong những thị trường mới nổi hấp dẫn nhất Châu Á, Nguyen Van Nguyen chỉ nhìn thấy sự u ám ở phía trước. Kể từ năm 2008, việc kinh doanh của anh tại thủ phủ kinh tế ở miền Nam Việt Nam đã kinh qua hai cơn biến động của lạm phát, lạm phát đã đạt đỉnh vào tháng Tám năm 2011 ở mức 23% - vào thời điểm đó, là tỷ lệ lạm phát cao nhất ở châu Á. Hiện nay anh đành chấp nhận những đơn đặt hàng nhỏ từ nước ngoài cho cái công ty Bình Minh, một nhà máy sản xuất mành trúc - từng một thời thịnh vượng của anh ta đặt tại Sài Gòn, để chống đỡ biến động giá cả. Anh nói rằng các khách hàng ở Úc, Châu Âu, và Mỹ đã giảm đơn hàng do sự suy yếu sức cầu trên phạm vi toàn cầu. Chi phí sản xuất toàn ngành công nghiệp đã tăng khoảng 30% trong khi khách hàng chỉ sẵn sàng trả thêm 10%, ông Dang Quoc Hung, phó chủ tịch Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và Công nghiệp Gỗ tp. HCM cho biết. Anh Nguyen hiện phải thuê ít nhân công hơn cho tháng cao điểm vào mùa hè và giảm lương của họ, từ mức 200 đô la nay chỉ còn khoảng 120 đô la một tháng. “Chúng tôi chỉ có thể làm việc với tiến độ chậm, và mọi thứ hiện nay đều rất khó khăn” anh than thở vào cuối tháng Sáu.

Đảng Cộng sản Việt Nam muốn các nhà đầu tư nhìn những trương hợp như anh Nguyên đơn giản chỉ là một trong những hậu quả địa phương gây ra bởi sự chững lại của kinh tế toàn cầu hơn là sự suy yếu của hệ thống. Trong hai thập kỷ kể từ cuộc đổi mới kinh tế năm 1986 của Đảng Cộng sản, tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt mức đáng chú ý: 7.1%. Thực chất, bốn năm trước, Việt Nam có vẻ như là câu chuyện thành công mới của châu Á. Trước khi gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO năm 2007, các lãnh đạo quốc gia cam kết làm tốt hơn, thúc đẩy một cuộc tái cấu trúc và tư nhân hóa mạnh mẽ đối với các công ty nhà nước làm ăn không hiệu quả (SOEs), một quá trình được gọi với mỹ từ “cổ phần hóa”. Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF đã dự báo trong năm 2007 rằng các hàng hóa nhập khẩu rẻ hơn, một kết quả của việc gia nhập WTO có thể kiềm chế lạm phát và việc tái cấu trúc có thể nâng tầm sân chơi giữa các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Nhưng trong chuyến thăm của bà Hillary Clinton tới thủ đô Hà Nội đầu tuần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bị đặt vào thế phòng thủ, hứa hẹn những điều kiện ưu đãi cho nhà đầu tư nước ngoài bởi ông muốn cố gắng duy trì hình ảnh một “Phép màu Việt Nam”.

Trong thập niên vừa qua, việc chi phí lao động ở Trung Quốc đang gia tăng hàm ý rằng thời kỳ công xưởng thế giới của đất nước này đã chấm dứt. Một Việt Nam ổn định, với lực lượng nhân công trẻ và rẻ mạt cùng với cơ sở hạ tầng tiện ích có vẻ như là lựa chọn hợp lý tiếp theo. Đầu tư nước ngoài đổ vào suốt những năm giữa thập niên 2000, với dòng tiền ròng năm 2008 là 9.6 tỷ đô la, tăng gấp ba lần so với hai năm trước đó. Việt Nam đã trở thành “con hổ châu Á mới trong hiện thực”, như Goldman Sachs đã nói. “Các nhà đầu tư nước ngoài không để tâm tới việc quản trị hay chính sách. Ông Edmund Malesky, một nhà kinh tế chính trị tại University of California tại San Diego chuyên về nghiên cứu Việt Nam phát biểu: “ Họ bị hấp dẫn bởi chi phí lao động thấp”.

Mọi thứ bắt đầu thay đổi miền Nam khi Việt Nam đưa ra gói 100 tỷ đô la mở rộng thi trường cổ phiếu/tín dụng nội địa từ năm 2007 tới 2010, một chương trình bị cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 thúc ép phải thực hiện.  Thay vì gói kích thích kinh tế này được đưa trực tiếp tới các doanh nghiệp tư nhân, chính phủ dẫn các nguồn vốn đó tới những doanh nghiệp nhà nước có mối quan hệ với chính trị, những người sử dụng vốn này đã mở rộng tràn lan tới các lĩnh vực ngoài chuyên môn của họ, dẫn tới việc gia tăng những nhu cầu tiêu xài đã dẫn tới lạm phát. Với tiền mặt dồi dào, các công ty này có thể hất cẳng các đối thủ nhỏ cạnh tranh với họ, nhưng lại hoạt động hiệu quả hơn họ. Doanh nghiệp đóng tàu khổng lồ của nhà nước Vinashin, tuyển dụng khoảng 60.000 lao động và kiểm soát 28 nhà máy đóng tàu, đa dạng hóa với gần 300 đơn vị, bao gồm cả sản xuất xe máy và khách sạn, sau khi nó tăng vốn thêm 1 tỷ đô la từ các nhà đầu tư quốc tế năm 2007. Các quan chức đã hy vọng nó sẽ dẫn dắt tăng trưởng giống như các tập đoàn bán công của Hàn Quốc.

Nhưng trong năm 2010, Vinashin đã bị phát hiện gian lận báo cáo tài chính và nó gần như sụp đổ với món nợ trị giá 4.4 tỷ đô la bao gồm cả nợ nội địa và quốc tế, tương đương với khoảng 5% GDP. Cuối cùng nó vỡ nợ với món vay trị giá 400 triệu đô la do Tổ chức dịch vụ tài chính quốc tế Credit Suisse dàn xếp/môi giới. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - người chống lưng cho Vinashin như là một đứa con cưng của ông, làm trọng tâm cho nền kinh tế điều hành bởi nhà nước - đã bị buộc phải xin lỗi trước Quốc hội trong một buổi tự phê bình đau đớn. Các đối thủ của ông Dũng, tìm kiếm sự bảo vệ cho các tập đoàn “mafia” và cơ sở chính trị của họ bằng cách, đã tìm thấy “vật tế thần”: Chính quyền đã bỏ tù 8 giám đốc điều hành vào cuối tháng Ba. Nhưng thay vì tăng tốc quá trình tư nhân hóa chậm chạp lê thê như đã hứa hẹn, khởi đầu từ thập niên 1990, chính quyền chỉ làm việc đẹp khoe xấu che (swept the debacle under the rug: quét bụi xuống dưới tấm thảm).

Chính phủ đã phải sử dụng phương thức kiểm soát thiệt hại, từ chối trả khoản vay 400 triệu đô la cho Credit Suisse trong khi tập đoàn này vẫn không chịu kết nối với các chủ nợ châu Âu. Phản ứng trước sự khủng hoảng này, hãng đánh giá tín nhiệm Quốc tế Moody đã hạ chỉ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam một bậc, từ Ba3 xuống B1, phản ánh “rủi ro tín dụng cao” vượt ngoài khoảng tài sản đầu tư an toàn.

Những sự cố tương tự Vinashin đã xuất hiện, nhưng mạng lưới bưng bít thông tin cho phép họ che giấu các sổ sách thua lỗ trong nhiều năm qua, theo phỏng vấn với một số biên tập viên cho các tờ báo nhà nước năm 2011. Tháng Năm năm 2012, một cuộc điều tra của chính phủ vẫn còn đang diễn ra cho thấy công ty vận tải biển Vinalines thuộc sở hữu nhà nước đã vỡ nợ 5 món vay trị giá 1.1 tỷ đô la, và cộng dồn là 2.1 tỷ đô la nợ, nhiều hơn tới 4 lần vốn chủ sở hữu của nó. Kể từ tháng Hai, 4 giám đốc điều hành đã bị bắt giữ vì làm thất thoát tài sản nhà nước; trong khi đó, chính quyền vẫn đang truy nã Chủ tịch cũ của Vinalines hiện đã bỏ trốn.

Các nhà đầu tư nước ngoài, đối mặt với chi phí lao động và nguyên liệu cao hơn, bắt đầu lo lắng rằng Việt Nam đang mất đi lợi thế giá thấp. Bốn nhà đầu tư nước ngoài đã phàn nàn trong các cuộc phỏng vấn trong vòng 2 năm qua rằng các công ty nhà nước đã lạm dụng vị trí của họ như là những kẻ gác đền cho chính phủ ở mọi ngành công nghiệp. “Chúng là nỗi đau từ những cái đầu tôm”("They're a pain in the ass,": Chúng là nỗi đau từ những cái củ sọ lừa) một luật sư người Mỹ ở Tp. HCM nói vậy. “Không ai muốn làm việc với họ”.

Trong khi các quan chức Việt Nam đảm bảo với các nhà đầu tư rằng thời kỳ khó khăn nhất đã qua, một cuộc kiểm toán chính phủ được công bố đầu tháng Bảy này phản ánh ít nhất 30 doanh nghiệp lớn khác của nhà nước mang gánh nặng nợ đáng lo ngại. Vấn đề sâu xa hơn đó là ở Việt Nam, không giống như Trung Quốc, tầng lớp Đảng Cộng sản hoang tưởng về việc chia chác chiến lợi phẩm với khu vực tư nhân, đặc biệt là thương nhân nước ngoài. Ở Trung Quốc, Đảng Cộng sản duy trì thị trường có tính cạnh tranh bằng cách tạo sự bình đẳng cho khu vực tư nhân, cải thiện quản trị, tư nhân hóa khoảng 90.000 công ty với trị giá hơn 1.4 nghìn tỷ đô la từ năm 1998 tới 2005, và gần đây còn thanh trừng các băng đảng như Bạc Hy Lai, bí thư Trùng Khánh trước đây. Các lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa chỉ ra được cách nào để củng cố lại nền kinh tế nếu không xóa bỏ bớt sự kiểm soát chính trị.

Thay vì dọn dẹp đống dây mơ rễ má giữa các công ty nhà nước và các chính trị gia chống lưng cho họ, những người nắm quyền đã đưa ra các chiến dịch chống lại thế hệ những doanh nhân kiêm nhà lập pháp mới nổi. Cuối tháng Năm, Quốc hội đã bỏ phiếu với tỷ lệ 96% để bãi nhiệm bà Đặng Thị Hoàng Yến, một trong số ít thương gia không phải Đảng viên nằm trong cơ quan lập pháp, vì đã khai báo không trung thực trong lý lịch.

Thực ra, tội của Yến là vì Bà đã nhiều lần kêu gọi đối xử công bằng với các doanh nghiệp tư nhân, mà những doanh nghiệp này, chúng đã mang về gần một nửa của toàn bộ thu nhập nền kinh tế. Ông David Brown, một cựu ngoại giao Mỹ tại Hà Nội cho rằng, "Để quét rác cho chế độ Việt Nam hiện nay là cần phải xử lý nhiều về hệ thống chính trị".

Tháng Sáu, việc thắt chặt tín dụng của chính phủ làm lạm phát giảm từ 23% năm ngoái xuống còn 6.9%. Vấn đề hiện nay, theo phản ảnh của các chủ cơ sở sản xuất nhỏ như ông Nguyên, đó là dòng lũ nới lỏng tín dụng làm tăng rủi ro cho một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Sau hai vụ đổ vỡ của doanh nghiệp nhà nước, chính phủ đã thừa nhận rằng có cái gì đó sai lầm căn bản trong hệ thống tài chính. Thống đốc ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình phát biểu đầu tháng Sáu rằng khoảng 10% nợ ngân hàng là nợ xấu. Thay vì cải cách kinh tế, chính phủ đang đề nghị những thứ tương tự: một kế hoạch thành lập cơ quan quản lý tài sản quốc gia với 4.8 tỷ đô la để xử lý các khoản nợ. Nhưng điều đó chỉ có ý nghĩa là thiết lập một bộ máy quan liêu khác để buộc hệ thống phải bảo trợ quyền lợi của thành phần tinh hoa, ngân hàng và doanh nghiệp của đảng.

Các nhà đầu tư đã phàn nàn về việc bị quá tải với bộ máy quan liêu và phần lớn trong số họ đang nghĩ đến việc di chuyển tới Indonesia, Bangladesh và Myanmar, theo ông Denny Cowger, một luật sư về tập đoàn tại công ty luật Duane Morris của Mỹ có văn phòng tại Hà Nội và Sài Gòn. Trong báo cáo cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2011 – 2012, Việt Nam đã tụt 6 bậc xuống vị trí 63 do các quy định lằng nhằng, lạm phát, thâm hụt ngân sách và cơ sở hạ tầng quá tải, mà chúng đã từng được ca ngợi làm nên một Việt Nam như là thị trường lao động tương đối hiệu quả và “tiềm năng đổi mới”.

Trong khi đó, khu vực nhà nước tiếp tục “ngốn” tới 40% GDP. “Điểm mấu chốt là Việt Nam phải tiến hành cải cách căn bản nền kinh tế nội địa để duy trì tính cạnh tranh”, ông Carl Thayer, giáo sư danh dự tại University of New South Wales phát biểu. “Có vẻ như các lãnh đạo Việt nam sẽ dùng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu làm lý do cho những sự việc xấu xa tương tự”.

BS Hồ Hải hiệu đính - Asia Clinic - 11h50' ngày thứ Bảy, 14/7/2012

Đăng nhận xét

0 Nhận xét