HAI TRĂM NĂM NGHIÊN CỨU UNG THƯ: DẪN NHẬP

Ngày đăng: [Saturday, June 02, 2012]
Đây là một bài viết của hai giáo sư chuyên nghiên cứu về ung thư ở Hoa Kỳ nhân 200 năm ra đời tạp chí chuyên ngành y khoa của vùng New England 30/5/1812 - 30/5/2012 - Nơi khởi thủy 6 tiểu bang đầu tiên của nước Mỹ: Connecticut, Maine, Massachusetts, New Hampshire, Rhode Island và Vermont - The New England Journal of Medicine - NEJM, một tạp chí dành cho các sinh viên y khoa và các nhà lâm sàng đọc, nghiên cứu và theo dõi những nghiên cứu mới và những bước tiến của y học toàn cầu. Những nghiên cứu được đăng từ những tạp chí như NEJM sẽ được tổng kết hằng tháng, quý và hằng năm ở các cuộc hội thảo Bắc Mỹ và đăng trên một loại tạp chí lớn hơn có tên là Tạp chí khoa học y học Bắc Mỹ: North American Journal of Medical Sciences - AJMS cho từng chuyên khoa sâu và tổng quan. Sau đó sẽ được tổng kết và cập nhật lên thành sách giáo khoa y học sau mỗi lần xuất và tái bản.

Tôi dịch bài viết này để cho các cháu sinh viên y khoa và các bạn trẻ mới ra khỏi trường Y ở nước Việt có cái nhìn tổng quát về Ung thư và lịch sử phát triển nghiên cứu, chẩn đoán, điều trị ung thư. Trong đó, cái nhìn một cách đồng bộ về phát triển y học có sự hỗ trợ các ngành công nghệ khác như vậy lý hạt nhân, điện toán, sinh học, tế bào học, toán học, v.v... và cả kinh tế chính trị học. Nước Mỹ vẫn là thiên đường của mọi ý tưởng và hiện thực hóa những ý tưởng của nhân loại để đi đến ngày một tốt đẹp hơn cho các bạn trẻ. Những ai có một ước mơ trong khoa học tư nhiên và xã hội, mà có năng lực và sự cần cù, thì không thất bại ở mãnh đất đầy đua tranh nhọc nhằn này. 

Vì bài viết dài nhiều ngàn chữ, nên tôi chia nó thành nhiều phần để đưa lên blog. Hy vọng nó sẽ không chỉ giúp dân trong ngành y, mà còn giúp cho người dân Việt hiểu thêm hơn về căn bệnh vẫn còn là ánh sáng cuối đường hầm trong y học hiện nay.


Hai tác giả: Vincent T. DeVita, Jr., M.D., and Steven A. Rosenberg, M.D., Ph.D.

Trong 200 năm kể từ khi Tạp chí Y học New England được thành lập, ung thư đã đi từ một hộp đen đến một kế hoạch chi tiết. Trong thế kỷ đầu tiên ấn phẩm của Tạp chí, các nhà thực hành y khoa chỉ có thể quan sát các khối u, cân và đo chúng nhưng cũng đã có vài công cụ để kiểm tra các hoạt động trong các tế bào ung thư. Một vài nhà quan sát sắc sảo đã đi trước thời đại của họ, bao gồm cả Rudolf Virchow, với lợi ích của kính hiển vi suy luận ra nguồn gốc tế bào ung thư trong 1863,(1) và Stephen Paget, người mà vào năm 1889, bằng một cách tư duy sáng suốt về giả thuyết hạt giống và đất của di căn ung thư,(2) mà lý thuyết của nó có được cho ngày hôm nay.


Bảng 1: Những khám phá và sự kiện chủ yếu trong lĩnh vực ung thư và những thay đổi tỷ lệ sóng sót tương đối của bệnh nhân ung thư tại Hoa Kỳ, 1863-2006.

Những tiến bộ quan trọng khác là phát hiện ra một nguyên nhân virus gây bệnh ung thư gia cầm bỡi Peyton Rous 1911(3) và đề nghị của Theodor Boveri vào năm 1914 rằng ung thư có thể được kích hoạt bởi đột biến nhiễm sắc thể.(4)

Tuy nhiên, nắp hộp đen không được mở cho đến năm 1944, khi một nhà khoa học đã nghỉ hưu tại Đại học Rockefeller, Oswald Avery, báo cáo kết quả thí nghiệm của ông đẹp, rõ ràng với các trực khuẩn gây viêm phổi, cho thấy rằng thông tin tế bào không những được truyền bởi các protein mà còn bỡi DNA.(5) công việc của ông đã dẫn trực tiếp đến khám phá quan trọng của cấu trúc DNA của Watson và Crick trong năm 1953(6). Tám năm sau đó, các mã di truyền đã được phá vỡ bởi Nirenberg và các đồng nghiệp,(7) và giáo điều chủ yếu của sinh học được thành lập, thông tin đó là truyền từ DNA sang RNA và kết quả tổng hợp các protein. Sau đó, sự quan trọng của một loạt các khám phá hoàn toàn bất ngờ làm gián đoạn suy nghĩ này, và chúng ta đã được nhắc nhở rằng, mọi thứ không phải luôn luôn là làm những việc chỉ để đối phó với mẹ thiên nhiên. Việc phát hiện sao chép ngược do Temin và Mizutani(8) và Baltimore(9), cho thấy thông tin có thể được truyền theo cách khác, từ RNA đến DNA, đã có một ảnh hưởng sâu sắc về y học nhưng đặc biệt nhất là về y học ung thư.

Các nhà nghiên cứu ban đầu phát hiện ra rằng DNA là một phân tử rất lớn, đó là khó khăn để nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Năm 1970, Smith và Wilcox giải quyết vấn đề này bằng cách xác định các enzym mà vi khuẩn sử dụng cho việc phòng thủ dùng để cắt DNA tại những vị trí đặc biệt bị hạn chế(10). Những khám phá này đã sinh ra cuộc cách mạng phân tử và ngành công nghiệp công nghệ sinh học. Họ cũng đã mở đường cho việc giải mã trình tự của bộ gen.

Loại nghiên cứu này của khoa học rất tốn kém. Quốc hội Hoa Kỳ giải quyết một phần vấn đề bằng cách cho ra đời Đạo luật Ung thư Quốc gia(the National Cancer Act), nó mở rộng vai trò của Viện Ung thư Quốc gia (NCI: National Cancer Institute), cơ quan được gây dựng bệnh đầu tiên tại Viện Y tế Quốc gia (NIH: National Institute of Health). Đạo luật được ký thành luật vào ngày 23 Tháng Mười Hai 1971, do Tổng thống Richard Nixon, tạo ra một nhiệm vụ mới cho một viện nghiên cứu NIH: "hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu để giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ biến chứng và tử vong từ ung thư" nhấn mạnh về việc áp dụng các kết quả nghiên cứu mới; nó đã không được tuyên bố là nhiệm vụ của NIH. Đạo luật đã tăng chi lên gấp năm lần ngân sách NCI cuối thập kỷ này và là một cú hích cho cuộc cách mạng trong sinh học phân tử.

Mặc dù sự nhiệt tình của Quốc hội để tiêu diệt ung thư, nhưng nó chủ yếu chỉ tạo ra một vài tiến bộ lâm sàng, và khoảng 85% của các quỹ này đã hỗ trợ nghiên cứu cơ bản. Tại đỉnh điểm vào đầu những năm 1980, NCI chiếm 23% ngân sách của NIH, nhưng nó hỗ trợ 53% nghiên cứu sinh học phân tử tại Hoa Kỳ. Và kết quả là một sự bùng nổ.

Việc phát hiện ra gen điều khiển hoặc ngăn chặn sự tăng trưởng tế bào và các quy định phức tạp của hệ thống tín hiệu được sử dụng bởi cả hai tế bào bình thường và các tế bào ung thư để thông tin với nhau và môi trường của chúng đã mang lại các kế hoạch chi tiết cho máy móc thiết bị nghiên cứu tế bào ung thư để giải quyết vấn đề (xem thêm Bảng 1). Sự liên kết những bất thường đặc biệt với những bệnh ung thư cụ thể đã cho phép các nhà khoa học xác định người có nguy cơ gia tăng những bệnh ung thư phổ biến, chẳng hạn như ung thư vú và ung thư đại tràng.


Diễn giải và bổ sung thêm tài liệu tham khảo của bài viết:
(1):  Virchow R. Cellular pathology as based upon physiological and pathological histology. Philadelphia: J.B. Lippincott, 1863.

(2):  Paget S. The distribution of secondary growths in cancer of the breast. Lancet 1889;1:571-573.

(3):  Rous P. A transmissible avian neoplasm (sarcoma of the common fowl). J Exp Med 1910;12:696-705.

(4):  Boveri T. Zur Frage der Entwicklung maligner Tumoren. Jena, Germany: Gustav Fischer-Verlag, 1914.

(5):  Avery OT, Macleod CM, McCarty M. Studies of the chemical nature of the substance inducing transformation of pneumococcal types: induction of transformation by a desoxyribonucleic acid fraction isolated from pneumococcus type III. J Exp Med 1944;79:137-158.

(6):  Watson JD, Crick FHC. Molecular structure of nucleic acids: structure for deoxyribose nucleic acid. Nature 1953;171:737-738.

(7):  Nirenberg MW, Matthaei JH. The dependence of cell-free protein synthesis in E. coli upon naturally occurring or synthetic polyribonucleotides. Proc Natl Acad Sci U S A 1961;47:1588-1602.

(8):  Temin HM, Mizutani S. RNA-dependent DNA polymerase in virions of rous sarcoma virus. Nature 1970;226:1211-1213[Erratum, Nature 1970;227:102.]

(9): Baltimore D. RNA-dependent DNA polymerase in virions of RNA tumour viruses. Nature 1970;226:1209-1211

(10):  Smith HO, Wilcox KW. A restriction enzyme from Hemophilus influenzae. I. Purification and general properties. J Mol Biol 1970;51:379-391

BS Hồ Hải dịch - Asia Clinic - 18h52' ngày thứ Bảy, 02/6/2012 

Đăng nhận xét

0 Nhận xét